Bảo đảm tăng trưởng bền vững
EmailPrintAa
14:43 16/01/2017

Do năng lực cạnh tranh quốc gia (NLCTQG) thấp, nền kinh tế nước ta tuy đạt được mức tăng trưởng khá trong những năm qua, song cái giá phải trả là kinh tế vĩ mô bất ổn kéo dài, tài nguyên cạn kiệt, môi trường ô nhiễm nặng nề, tốc độ tăng trưởng dần chậm lại,… Để đạt được tăng trưởng cao và bền vững, Việt Nam cần thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp nâng cao NLCTQG để chuyển sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, dựa trên đổi mới công nghệ, nhân lực chất lượng cao nhằm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả.
 
Sản xuất gạch men, gạch ốp lát tại Công ty cổ phần Viglacera Tiên Sơn (Khu công nghiệp Tiên Sơn, Bắc Ninh).  

Năng lực cạnh tranh quốc gia thấp

Hội nhập kinh tế thực chất là tham gia cạnh tranh bình đẳng tại thị trường nội địa cũng như thế giới. Trong bối cảnh đó, NLCTQG là yếu tố sống còn. Theo luận điểm của một số chuyên gia kinh tế, yếu tố quan trọng nhất của NLCTQG là năng suất lao động, bởi đây là nhân tố quyết định tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư vào nền kinh tế, đồng thời là động lực tạo nên tăng trưởng kinh tế. Nói cách khác, một nền kinh tế có năng suất lao động cao, cũng là nền kinh tế có trình độ phát triển, tốc độ và tiềm năng tăng trưởng cao. NLCTQG không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn, mà còn là nền tảng bảo đảm tăng trưởng bền vững trong dài hạn. Bởi một quốc gia không có năng lực cạnh tranh cao vẫn có thể tăng trưởng cao trong ngắn hạn, nhờ một số biện pháp thúc đẩy tăng trưởng nhất thời như tăng vốn đầu tư, mở rộng tín dụng, thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng,… Song cách làm này sớm muộn sẽ gây ra những bất ổn cho kinh tế vĩ mô. Các yếu tố mất cân đối vĩ mô như lạm phát, nợ công, thâm hụt ngân sách, nhập siêu, đồng nội tệ mất giá,… sẽ vô hiệu hóa mọi thành quả đạt được nhờ tăng trưởng kinh tế, thậm chí dẫn đến phá sản nền kinh tế. Phát triển luận điểm trên, Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) định nghĩa năng lực cạnh tranh của một nền kinh tế là sự tổng hợp các nhân tố quyết định năng suất lao động cùng hệ thống thể chế, chính sách của nền kinh tế đó. WEF cũng đề xuất sử dụng chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) để đánh giá năng lực cạnh tranh của các nền kinh tế trên toàn thế giới. Vậy Việt Nam đang nằm ở đâu trong bảng xếp hạng này? Thực tế, Việt Nam đã được WEF đưa vào danh sách ngay từ lần đánh giá đầu tiên (năm 2006-2007). Từ đó, với vị trí dao động từ 56 đến 75 (trong tổng số khoảng 150 nước tham gia) trong 10 lần đánh giá, Việt Nam luôn lọt vào nhóm 50 nền kinh tế giữa bảng. Điều đáng mừng là từ năm 2013 đến nay, vị trí của Việt Nam liên tục được cải thiện, từ 70 lên 56 vào năm 2015-2016. Tuy nhiên, khi so sánh, Việt Nam luôn chỉ được xếp vào nhóm các nước có động lực phát triển dựa chủ yếu vào các nhân tố cơ bản của sản xuất (vốn, lao động, tài nguyên,…).

Giải pháp dài hạn

Thực tế, trong giai đoạn năm 2001-2010, Việt Nam tăng trưởng kinh tế khá cao, song cũng là giai đoạn đầy bất ổn kéo dài sang cả những năm sau đó. Giai đoạn này, Việt Nam tăng trưởng bình quân khoảng 7,3%/năm, nhưng mức tăng trưởng này lại không dựa trên cải thiện năng suất lao động và NLCTQG, mà chủ yếu dựa vào khai thác các yếu tố đầu vào (vốn, lao động, tài nguyên,…) cùng các biện pháp mở rộng đầu tư và tín dụng. Đây là mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, tất yếu dẫn đến lạm phát và các bất ổn kinh tế vĩ mô khác. Thí dụ, tốc độ tăng trưởng tín dụng cao gấp nhiều lần GDP, được duy trì liên tục nhiều năm, đã gây mất cân đối nghiêm trọng giữa tiền và hàng, khiến lạm phát tăng mạnh. Chỉ số giá tiêu dùng trong những năm 2007-2012 dao động trong khoảng 12,6% đến 19,9%. Bên cạnh đó, tổng vốn đầu tư toàn xã hội, nhất là đầu tư công tăng cao trong khi hiệu quả sử dụng thấp đã dẫn đến nợ công tăng nhanh. Nếu năm 2001, nợ công chỉ bằng 36% GDP thì năm 2016 đã tăng lên gần 65% GDP. Mức tăng nợ công trung bình 5 năm qua là 18,4%, gấp ba lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, chính sách tăng trưởng theo chiều rộng dựa vào khai thác tài nguyên cũng khiến tài nguyên khoáng sản ngày càng cạn kiệt; công nghệ sản xuất lạc hậu và tiêu tốn nhiều năng lượng khiến môi trường bị hủy hoại. Theo ước tính, GDP của Việt Nam tăng trưởng thêm 1% thì thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra lại làm giảm 0,3%.

Nhận thức được hậu quả đối với nền kinh tế gây ra bởi chính sách tăng trưởng ngắn hạn theo chiều rộng, từ năm 2011 đến nay, Việt Nam đã thực hiện một loạt chính sách để ổn định kinh tế vĩ mô và cải thiện môi trường kinh doanh. Thực chất đây là những chính sách nhằm từng bước nâng cao năng suất lao động và NLCTQG, bảo đảm phát triển kinh tế bền vững trong dài hạn. Tuy nhiên, xếp hạng của WEF cho thấy, NLCTQG của Việt Nam tuy đã được cải thiện, song vẫn còn thấp. Để nâng cao NLCTQG, chúng ta cần tập trung cải thiện những trụ cột còn yếu kém. Trước hết, cần xử lý tốt ba điểm nghẽn của nền kinh tế là thể chế, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực. Tiếp đó, kiên trì thực hiện chính sách ổn định kinh tế vĩ mô để tạo môi trường ổn định lâu dài, làm tiền đề cho tăng trưởng kinh tế bền vững trong dài hạn. Ngoài ra, tiếp tục thực hiện mạnh mẽ việc hoàn thiện cơ chế thị trường nhằm nâng cao hiệu năng của các thị trường hàng hóa, lao động, tài chính,… Điểm cuối cùng, song quan trọng hơn cả là phải thay đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang mô hình tăng trưởng bền vững dài hạn theo chiều sâu, trên cơ sở đổi mới công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, tăng năng suất lao động; chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế sang các ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Theo TS Lê Quốc Phương - Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại, Bộ Công thương/nhandan.com.vn


    Ý kiến bạn đọc