Chậm cổ phần hóa đồng nghĩa với khả năng gây thất thoát cho Nhà nước
EmailPrintAa
15:16 09/08/2019

Ngày 8-8, tại Hà Nội, Tạp chí Doanh nghiệp phối hợp với Cục Tài chính doanh nghiệp-Bộ Tài chính tổ chức Diễn đàn tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước (DNNN).

Chưa nghiêm túc triển khai kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN

Tại Diễn đàn, ông Đặng Quyết Tiến, Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp - Bộ Tài chính cho hay, đổi mới, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là một trong ba nhiệm vụ quan trọng của tái cơ cấu nền kinh tế. Tuy nhiên, tiến độ tái cơ cấu DNNN mà trọng tâm là cổ phần hóa, thoái vốn chưa đạt kế hoạch đề ra. Tiến độ bàn giao các doanh nghiệp có vốn nhà nước về Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) cũng chậm; số doanh nghiệp chưa chuyển giao gồm 29 doanh nghiệp với tổng số vốn nhà nước là 630 tỷ đồng.

Ông Đặng Quyết Tiến chỉ rõ nguyên nhân của thực trạng trên là do một số Bộ, ngành, địa phương, Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước còn chưa thực sự nghiêm túc triển khai kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN  theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và chưa chấp hành chế độ báo cáo. Vai trò, nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu doanh nghiệp, đơn vị còn chưa cao, chưa quyết liệt trong việc đổi mới hoạt động của doanh nghiệp, công khai minh bạch, đúng quy định pháp luật, bảo đảm nguyên tắc thị trường, chống lợi ích nhóm trong cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước.

Ông Đặng Quyết Tiến phát biểu tại diễn đàn.

Đặc biệt, quá trình cổ phần hóa DNNN cần có nhiều thời gian để xử lý vướng mắc về tài chính, đất đai, lao động trong giai đoạn trước cổ phần hóa làm kéo dài thời gian thực hiện cổ phần hóa. Thêm nữa là vấn đề xác lập hồ sơ pháp lý đất đai do ủy ban nhân dân địa phương thực hiện chậm, kéo dài thời gian hơn so với quy định dẫn đến các doanh nghiệp phải điều chỉnh tiến độ cổ phần hóa...

Nhiều doanh nghiệp còn kinh doanh bết bát sau cổ phần hóa

Chuyên gia kinh tế, TS Ngô Trí Long thì chỉ ra một thực tế rằng, việc Nhà nước còn nắm tỉ lệ sở hữu lớn khiến DNNN khó thay đổi về chất. Bởi qua theo dõi diễn biến trên thị trường chứng khoán trong hơn 3 năm qua, trong tổng số 25 tổng công ty thuộc diện thoái vốn giai đoạn 2017-2020 theo Quyết định số 1232/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, đã có 20 tổng công ty đã niêm yết trên thị trường chứng khoán. Nhưng số liệu trên sàn cho thấy, chỉ có 1 tổng công ty đã thực hiện thoái hết vốn nhà nước (Tổng công ty CP Đầu tư phát triển xây dựng), còn lại có đến 8 tổng công ty gần như không có giao dịch cổ phiếu hoặc giao dịch không đáng kể.

“Những doanh nghiệp này đều có một đặc điểm chung là Nhà nước vẫn đang nắm từ 80% - 98% tổng số cổ phần. Quan sát cũng cho thấy, không có nhiều biến động tích cực nào về tình hình hoạt động, sản xuất kinh doanh của những doanh nghiệp này sau cổ phần hóa. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp còn kinh doanh bết bát, kém hiệu quả hơn”, TS. Ngô Trí Long chỉ rõ.

Cũng theo TS Ngô Trí Long, trong giai đoạn từ năm 2011-2016, trong số 426 doanh nghiệp, nhà đầu tư chiến lược chỉ nắm giữ 7,3% vốn điều lệ của doanh nghiệp cổ phần hóa. Điều này đã dẫn đến một thực tế đáng lo ngại là DNNN không có sự thay đổi căn bản về cơ chế quản trị, nhân sự là những yếu tố quan trọng giúp nâng cao hiệu quả hoạt động. Bên cạnh đó, trong nhiều trường hợp, việc tham gia vào HĐQT của nhà đầu tư chiến lược chỉ mang tính hình thức (tỉ lệ cổ phần nắm giữ cũng chưa quá 35% để có tiếng nói trong quản lý, điều hành doanh nghiệp).

Nhấn mạnh "trong nhiều trường hợp, chậm cổ phần hóa, thoái vốn cũng đồng nghĩa với khả năng gây thất thoát cho Nhà nước càng lớn", TS Ngô Trí Long dẫn chứng nhiều dự án như nhà máy Bột Giấy Phương Nam, Công ty Gang thép Thái Nguyên… bán nhiều lần không ai mua; hoặc không bán được do còn vướng mắc, tồn đọng chưa giải quyết được. Cổ phiếu của một số doanh nghiệp có vốn nhà nước trong một số ngành, lĩnh vực vốn rất hấp dẫn nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư ngoại, như dược phẩm, công nghiệp nhựa, bia rượu, nước giải khát… đang giảm dần...

Quang cảnh diễn đàn.

“Nếu Nhà nước không có cơ chế đặc thù để xử lý dứt điểm khó khăn, vướng mắc để thoái vốn càng nhanh càng tốt, thì chắc chắn bất lợi và thiệt hại sẽ càng nhiều hơn. Một điểm đáng lo ngại hơn là sự chậm trễ trong cổ phần hóa, thoái vốn dễ dẫn đến doanh nghiệp có tâm lý hoạt động cầm chừng chờ đợi, thậm chí là bất an của chính đội ngũ quản lý và người lao động, gây ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp”, TS Ngô Trí Long phân tích và chỉ rõ, trong trường hợp này, những doanh nghiệp đã yếu kém sẽ lại càng yếu kém hơn và Nhà nước sẽ càng khó khăn hơn khi thoái vốn.

Tăng tốc tái cơ cấu DNNN

Trước những thực tế nêu trên, tại diễn đàn, các chuyên gia kinh tế đã đưa ra một đề xuất nhằm hoàn thiện cơ chế chính sách về cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước.

Theo TS Ngô Trí Long, cần quy định rõ hơn về trách nhiệm của Bộ, ngành và các bên liên quan trong cổ phần hóa, thoái vốn khi mà kế hoạch, danh mục Thủ tướng đã phê duyệt. TS Ngô Trí Long nêu quan điểm cho rằng không ít những nhà đầu tư chiến lược Việt khác tham gia mua cổ phần của doanh nghiệp nhà nước chỉ nhằm mục đích chính là bất động sản và những khu đất vàng hơn là nhằm vào thương hiệu hoặc ngành kinh doanh chính của doanh nghiệp.

Một vấn đề khác, theo chuyên gia Ngô Trí Long là khá quan trọng. Đó là trong quá trình cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước, việc lựa chọn nhà đầu tư nội hay ngoại sẽ không thực sự quan trọng bằng việc đánh giá, lựa chọn được nhà đầu tư với công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm với thị trường Việt Nam, có cam kết gắn bó với thị trường Việt Nam trong dài hạn, có chiến lược phát triển dựa trên những sản phẩm thuần Việt. “Có như vậy thì quá trình cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp mới thực sự trở thành công cụ hiệu quả giúp Nhà nước đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong dài hạn theo đúng chủ trương, chính sách mà Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã đề ra”, TS Ngô Trí Long khuyến nghị.

Chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long cũng cho rằng, phải quy định rõ hơn về trách nhiệm của Bộ, ngành và các bên liên quan trong cổ phần hóa, thoái vốn khi kế hoạch, danh mục Thủ tướng đã phê duyệt cho cả giai đoạn. Đối với những trường hợp có vướng mắc, đặc thù hoặc chưa có quy định rõ ràng của pháp luật thì quy định rõ thẩm quyền do ai phải đề xuất phương án xử lý; ai có đủ thẩm quyền phê duyệt, tránh tư tưởng đùn đẩy, sợ trách nhiệm trong xử lý công việc, không “tròn vo, đẩy công văn xin ý kiến vòng quanh” gây ách tắc, trì trệ.

Còn ông Trần Nguyên Nam, Phó trưởng ban Phụ trách Ban Kế hoạch tổng hợp SCIC cũng cho rằng, cơ quan quản lý cần xem xét, đánh giá hiệu quả hoạt động của DNNN một cách tổng thể; các Bộ, địa phương thực hiện nghiêm túc việc chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp thuộc đối tượng chuyển giao về SCIC. Riêng đối với quá trình cổ phần hóa, SCIC đề xuất cơ quan có thẩm quyền sớm phê duyệt phương án sắp xếp nhà đất và phương án sử dụng đất doanh nghiệp mà SCIC cổ phần hóa theo quy định.

Đánh giá rằng dù các văn bản quy phạm phát luật về cổ phần hóa, thoái vốn ngày càng hoàn thiện, nhưng áp dụng vào trong thực tế muôn màu, muôn vẻ nên ông Vũ An Khang, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Định giá và Dịch vụ tài chính Việt Nam (VVFC) nhận định, đơn vị tư vấn và doanh nghiệp cổ phần hóa, thoái vốn vẫn gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Theo ông Vũ An Khang, đối với phương án sử dụng đất theo quy định các doanh nghiệp cổ phần hóa phải rà soát toàn bộ diện tích đất đang quản lý, sử dụng để lập phương án sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, pháp luật về sắp xếp lại, xử lý nhà đất thuộc sở hữu nhà nước. Từ đó, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, phê duyệt trước thời điểm quyết định cổ phần hóa...

Nguồn: qdnd.vn


    Ý kiến bạn đọc