Tiến nhanh tới mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân
EmailPrintAa
15:57 04/11/2019

“Bảo đảm đến năm 2015 đạt ít nhất 75% dân số tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) và đến năm 2020 đạt ít nhất 80% dân số tham gia BHYT” là những chỉ tiêu mà Nghị quyết 68/2013/QH13 của Quốc hội giao cho Chính phủ. Thế nhưng, đến thời điểm này, kết quả thực hiện chính sách, pháp luật BHYT đã có những kết quả vượt xa mục tiêu ban đầu. Ðiều đó cho thấy, sau sáu năm triển khai thực hiện Nghị quyết 68, Việt Nam đang có những bước tiến nhanh và chắc trên lộ trình hướng tới BHYT toàn dân.

Bác sĩ Bệnh viện đa khoa huyện Ðắk G’long (Ðắk Nông) khám, chữa bệnh cho đối tượng có thẻ bảo hiểm y tế trên địa bàn. Ảnh: Nguyễn Ðăng

Tỷ lệ bao phủ vượt mục tiêu

Chính phủ đã có Báo cáo số 413/BC-CP ngày 20-9 vừa qua, gửi Quốc hội về kết quả thực hiện Nghị quyết số 68/2013/QH13 (gọi tắt là Nghị quyết 68) về đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật BHYT, tiến tới BHYT toàn dân. Theo báo cáo, năm 2019, cả nước đã có khoảng 83,5 triệu người tham gia BHYT, đạt tỷ lệ bao phủ 89,8% dân số, vượt gần 10% so với chỉ tiêu trong Nghị quyết 68 và vượt chỉ tiêu Thủ tướng giao tại Quyết định số 1167/QÐ-TTg là 1,7%. Trong đó, có 22 tỉnh, thành phố có tỷ lệ bao phủ BHYT ước hơn 90% dân số; 12 tỉnh, thành phố có tỷ lệ bao phủ từ 88,1 đến dưới 90% và 29 địa phương đạt tỷ lệ bao phủ BHYT dưới 88,1%. Thống kê cho thấy, các nhóm đối tượng có tỷ lệ tham gia BHYT cao là nhóm người thuộc khối ngành sự nghiệp; nhóm được ngân sách nhà nước (NSNN) đóng hoặc được Quỹ Bảo hiểm xã hội (BHXH) bảo đảm kinh phí mua thẻ BHYT, như: người nghèo, người có công với cách mạng, trẻ em dưới sáu tuổi… Ðồng thời, tỷ lệ bao phủ BHYT chưa cao tập trung vào các nhóm, như: người thuộc hộ gia đình cận nghèo; người thuộc hộ gia đình nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có mức sống trung bình; học sinh, sinh viên; hộ gia đình.

Một trong những yếu tố bảo đảm cho tỷ lệ bao phủ BHYT tăng cao là chất lượng khám, chữa bệnh BHYT ngày càng được nâng cao, đáp ứng sự hài lòng của người bệnh, nhất là tại y tế tuyến cơ sở. Nghị quyết 68 của Quốc hội cũng giao Chính phủ: Ðến năm 2020, hoàn thiện việc đầu tư trạm y tế xã ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, giảm ít nhất 50% tình trạng quá tải ở bệnh viện tuyến trung ương, hoàn thành việc chuyển chi thường xuyên từ NSNN trực tiếp cho cơ sở khám, chữa bệnh sang hỗ trợ người dân tham gia BHYT gắn với lộ trình tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế.

Bộ Y tế đã tích cực tổ chức triển khai, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, kết quả cho thấy, tình trạng quá tải ở các bệnh viên tuyến T.Ư cũng được cải thiện đáng kể, những chuyên khoa quá tải hàng đầu, như: Ung bướu, tim mạch, chấn thương chỉnh hình, sản, nhi… đều có xu hướng giảm... Tại Bệnh viện Bạch Mai có công suất sử dụng giường bệnh là 168% (năm 2011) giảm xuống còn 112% (năm 2018); Bệnh viện K có công suất sử dụng giường bệnh là 249% (năm 2011) còn 98% (năm 2018)… Tình trạng quá tải ở khu vực nội trú ở các bệnh viện tuyến T.Ư và bệnh viện tuyến cuối của TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh có xu hướng giảm rõ rệt. Bên cạnh đó, quyền lợi của người bệnh BHYT cũng được nâng lên rõ rệt, vì không phải trả thêm hoặc tự mua một số thuốc, vật tư y tế mà trước đây họ phải tự mua hoặc phải trả thêm do quỹ BHYT không thanh toán. Các bệnh viện tuyến dưới cũng được khuyến khích thực hiện các kỹ thuật mới, góp phần nâng cao trình độ chuyên môn và từng bước giảm quá tải cho tuyến trên.

Nghị quyết 68 cũng chỉ rõ, đến năm 2020 sẽ hoàn thành lộ trình tính đúng, tính đủ giá viện phí; qua đó góp phần quan trọng vào việc thực hiện nhiệm vụ chuyển chi thường xuyên từ NSNN cấp cho các cơ sở y tế sang hỗ trợ người dân tham gia BHYT. Theo báo cáo năm 2018, cả nước đã sử dụng khoảng 31.140 tỷ đồng; năm 2019 sử dụng khoảng 32.300 tỷ đồng chi sự nghiệp y tế (chiếm khoảng 35%) để hỗ trợ người nghèo, các đối tượng chính sách tham gia BHYT...

Tiến tới mục tiêu BHYT toàn dân

Ðánh giá của Chính phủ cho thấy, có được những kết quả ấn tượng nêu trên chính là nhờ những chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cũng như sự phối hợp hiệu quả của BHXH Việt Nam, Bộ Y tế và các bộ, ban ngành liên quan trong việc nghiên cứu, xây dựng, đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến BHYT cũng như đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia BHYT. Ðồng thời tăng cường đầu tư cho y tế cơ sở, cải tạo, mở rộng cơ sở, trang thiết bị cho các trạm y tế xã vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn... để đẩy nhanh lộ trình thực hiện BHYT toàn dân.

Ðể phấn đấu đến năm 2020 có hơn 90% dân số tham gia BHYT, Chính phủ xác định rõ nhiệm vụ: Tập trung phát triển BHYT; triển khai đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh BHYT, đáp ứng sự hài lòng của người bệnh. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, kết nối dữ liệu trong quản lý khám, chữa bệnh và thanh toán chi phí khám, chữa bệnh BHYT, tạo điều kiện thuận lợi để người dân tham gia và hưởng ứng đầy đủ quyền lợi BHYT. Ðổi mới cơ chế tài chính và phương thức thanh toán…

Ðể thực hiện những nội dung này, Chính phủ kiến nghị Quốc hội đưa nội dung đầu tư cho các trạm y tế xã vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn vào nghị quyết về kinh tế - xã hội, dự toán NSNN năm 2020 và nghị quyết về đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 để các tỉnh ưu tiên bố trí nguồn vốn đầu tư cho các trạm y tế. Bên cạnh đó, xem xét cân đối vốn đầu tư công trung hạn 2016-2020 cho chương trình “Ðầu tư phát triển mạng lưới y tế cơ sở vùng khó khăn” vay vốn Ngân hàng Phát triển châu Á; cho dự án “Ðầu tư xây dựng và phát triển hệ thống cung ứng dịch vụ y tế tuyến cơ sở” vay vốn Ngân hàng Thế giới để có thể thực hiện ngay trong năm 2020 và các năm tiếp theo.

Ðồng thời, chỉ đạo các địa phương triển khai các giải pháp để thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu tỷ lệ dân số tham gia BHYT đã được Thủ tướng giao. Bảo đảm ngân sách mua thẻ BHYT cho các đối tượng được Nhà nước hỗ trợ 100%; ưu tiên bố trí ngân sách để hỗ trợ hộ gia đình cận nghèo, hộ có thu nhập trung bình tham gia BHYT. Thúc đẩy bao phủ BHYT đối với nhóm đối tượng học sinh, sinh viên. Riêng với ngân sách của các địa phương, phần kinh phí dành ra từ giảm chi thường xuyên trong lĩnh vực hành chính và hỗ trợ các đơn vị sự nghiệp công lập y tế, được sử dụng theo nguyên tắc: Dành 50% bổ sung nguồn cải cách tiền lương để thực hiện chi trả tiền lương tăng thêm do tăng mức lương cơ sở trong lĩnh vực hành chính và các lĩnh vực có đơn vị sự nghiệp; dành 50% còn lại thực hiện chi trả các chính sách an sinh xã hội do địa phương ban hành (ưu tiên đầu tư cho các trạm y tế xã) và tăng chi cho nhiệm vụ tăng cường cơ sở vật chất của lĩnh vực y tế…

Nguồn: nhandan.com.vn


    Ý kiến bạn đọc