Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của nhân dân ta
EmailPrintAa
15:47 07/10/2014

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là kết tinh tư tưởng của Người, một Cương lĩnh xây dựng đất nước sau chiến tranh, thể hiện tầm nhìn, cách nhìn của một trí tuệ lớn, một tinh thần nhân văn, một tư duy cách mạng và khoa học, đổi mới và sáng tạo, trong đó đoàn kết là nội dung quan trọng.

1. Hồ Chí Minh quan tâm tới đoàn kết từ lúc ra đi tìm đường cứu nước đến tận cuối đời

Vấn đề đoàn kết trong Di chúc là kết tinh tư tưởng đoàn kết của Hồ Chí Minh trong suốt quá trình hoạt động cách mạng. Theo Người, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của dân ta. Trong những bài viết của Người, nội dung được bàn nhiều nhất là đoàn kết. Người tổng kết lịch sử nước ta: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi dưới ngọn cờ Việt Minh để đánh đuổi Tây - Nhật, khôi phục lại độc lập, tự do(1).

Từ khi ra đời, Đảng đã phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc, nâng cao sức mạnh đoàn kết toàn dân thành sức mạnh đại đoàn kết dân tộc với một trình độ mới, một giá trị mới. Hồ Chí Minh kêu gọi: “Dân ta xin nhớ chữ đồng, Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh!”. Đó là lời kêu gọi đoàn kết cô đúc nhất, từ đó đưa tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp và Mỹ, bước đầu thắng lợi trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Với tư cách là người sáng lập Đảng và Nhà nước, Hồ Chí Minh hết sức quan tâm tới việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong hệ thống chính trị, đoàn kết trong Đảng với ngoài Đảng, đoàn kết quốc tế. Để đoàn kết, Người chú trọng hai mặt: Một là, đề cao việc thực hiện đoàn kết với những nội dung, cách làm, biện pháp cụ thể đưa tới sức mạnh của cách mạng. Hai là, phê phán tư tưởng và hành vi mất đoàn kết, cô độc, hẹp hòi.

Trước hết là, phải đoàn kết trong Đảng, vì Đảng là đội tiên phong của giai cấp và dân tộc. Nhưng chỉ đoàn kết trong Đảng là hoàn toàn chưa đủ và không thể thành công được, còn phải đoàn kết nhân dân cả nước. Bởi vì so với nhân dân thì số lượng đảng viên chỉ là thiểu số, hàng trăm người dân mới có một người đảng viên. Nếu không có nhân dân giúp sức, thì Đảng không làm được việc gì hết.

Hồ Chí Minh dạy: “Ta cần phải hợp tác với những người ngoài Đảng. Ta không được khinh rẻ họ, chê bai họ. Ta phải liên lạc mật thiết với dân chúng. Không được rời xa dân chúng. Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định thất bại”.

Hồ Chí Minh từng chỉ rõ, vì bệnh hẹp hòi mà không biết dùng nhân tài, việc gì cũng ôm lấy hết. Ôm lấy hết thì cố nhiên làm không nổi. Cũng vì bệnh hẹp hòi mà không biết cách xử trí khôn khéo với các hạng đồng bào như tôn giáo, quốc dân thiểu số, anh em trí thức, các quan lại cũ,...(2)

Về ý nghĩa của đoàn kết, tổng kết thắng lợi 30 năm hoạt động của Đảng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng ta đã khéo tập hợp mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ trong Mặt trận dân tộc thống nhất, thực hiện đoàn kết dân tộc để đấu tranh chống đế quốc và phong kiến... Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng ta luôn đấu tranh trên hai mặt trận: chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ việc tranh thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ được; đồng thời chống khuynh hướng đoàn kết một chiều, đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức trong nội bộ Mặt trận. Kinh nghiệm 30 năm của Đảng ta trong công tác đoàn kết dân tộc đã chứng tỏ rằng, cần phải đấu tranh trên hai mặt trận như thế, thì vai trò lãnh đạo của Đảng trong Mặt trận dân tộc thống nhất mới được đảm bảo, nền tảng công nông của Mặt trận mới được vững chắc, tính chất rộng rãi của Mặt trận mới được phát huy đầy đủ”(3).

Dưới ánh sáng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh luôn xác định đoàn kết là chiến lược, là yêu cầu khách quan của cách mạng, là chân lý của thời đại. Một dân tộc dù nhỏ, đất không rộng người không đông, nhưng nếu biết đoàn kết chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của một Đảng cách mạng chân chính thì nhất định sẽ đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Trong đoàn kết thì đoàn kết trong Đảng là điểm mẹ, tạo sức mạnh đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế theo tinh thần “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết”. Mức độ thắng lợi của cách mạng tỷ lệ thuận với khả năng đoàn kết. Tuy nhiên, chỉ có đoàn kết trong Đảng thì không thể thành công. Đoàn kết không gắn với công việc, không gắn với đấu tranh, kiểu “dĩ hòa vi quý”, không phê bình thì cũng không tạo ra sức mạnh. Đoàn kết không chỉ dừng lại ở nhận thức, tư tưởng mà phải có tổ chức, đó là Mặt trận dân tộc thống nhất. Hồ Chí Minh đã khắc phục sự thiếu hụt trong tư duy đoàn kết truyền thống bằng lý luận khoa học trong thời đại mới về đoàn kết. Người cũng lấp đầy chỗ trống trong học thuyết Mác - Lênin về đoàn kết, đó là tư duy về cấu trúc xã hội thuộc địa mà mâu thuẫn dân tộc là cơ bản và chủ yếu. Những khía cạnh nêu trên là then chốt của đoàn kết, cũng là là then chốt của cách mạng.

2. Tư duy mới về đoàn kết trong Di chúc

So với một số nội dung khác, vấn đề đoàn kết được Hồ Chí Minh viết lần đầu vào tháng 5/1965 và sau đó không có bổ sung, điều chỉnh. Điều này chứng tỏ vấn đề đoàn kết hoàn toàn được khẳng định một cách chắc chắn từ truyền thống đến hiện đại.

Đoàn kết là một phạm trù rộng, có nhiều cấp độ, liên quan tới nhiều vấn đề, được Hồ Chí Minh đặt lên đầu trong vấn đề “trước hết”. Người viết: “Trước hết nói về Đảng. Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Từ năm 1945, sau khi giành được chính quyền về tay nhân dân, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, sứ mệnh của Đảng vô cùng to lớn. Đảng lãnh đạo Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội, lãnh đạo toàn xã hội. Khi chưa cầm quyền, nhiệm vụ quan trọng nhất của Đảng là lãnh đạo toàn dân xóa bỏ chính quyền của giai cấp bóc lột, thực dân - phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, Đảng cần phải đoàn kết toàn dân tộc. Khi trở thành Đảng cầm quyền, nhiệm vụ lớn lao nhất của Đảng là lãnh đạo toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để hoàn thành nhiệm vụ thắng bần cùng lạc hậu là một loại nhiệm vụ khó khăn hơn nhiều so với thắng đế quốc và phong kiến, cần nhiều động lực, nhưng quan trọng nhất vẫn là đoàn kết, Đảng càng phải đoàn kết, không chỉ đoàn kết dân tộc mà còn phải đoàn kết quốc tế.

Theo Hồ Chí Minh, điều cần quán triệt và thấm nhuần là đoàn kết được thực hiện trước hết từ các đồng chí Trung ương. Trung ương là cấp lãnh đạo cao nhất. Đây là bộ phận quan trọng nhất, có tác dụng chi phối các bộ phận khác có liên quan. Còn tổ chức đảng cơ sở, như chi bộ, lại là cầu nối giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Mỗi một tổ chức, dù ở Trung ương hay chi bộ, đều nằm trong mạch máu của Đảng và truyền đến nhân dân. Các đồng chí từ Trung ương mà không đoàn kết thì vai trò của “điểm mẹ”, của tấm gương, của bộ não chỉ huy sẽ mờ nhạt, thậm chí tê liệt. Các chi bộ mà không đoàn kết thì sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo trực tiếp sẽ thấp, thậm chí mất vai trò lãnh đạo. Vì vậy, điều quan trọng là phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.

Có nhiều cách thực hiện đoàn kết, nhưng Di chúc chỉ ra một cách được coi là tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Đó là trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình. Thực hành dân chủ rộng rãi, gắn bó chặt chẽ và xuất phát từ phê bình và tự phê bình. Phê bình là một biểu hiện nổi bật, một giá trị của dân chủ. Ngay sau khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh rất quan tâm tới dân chủ trong Đảng và cách lãnh đạo dân chủ. Người đã phát hiện ra tình trạng không dân chủ trong Đảng: “Nếu ai nói chúng ta không dân chủ, thì chúng ta khó chịu. Nhưng nếu chúng ta tự xét cho kỹ, thì thật có như thế(4). Hồ Chí Minh thấy rõ tác hại của cách lãnh đạo không dân chủ. Đó là các đảng viên và cán bộ dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ, không dám phê bình. Thành thử cấp trên với cấp dưới cách biệt nhau; quần chúng với Đảng xa rời nhau. Trên thì tưởng cái gì cũng tốt đẹp, dưới thì không dám nói ra. Họ không nói không phải vì họ không có ý kiến, nhưng vì họ nghĩ nói ra cấp trên cũng không nghe, không xét, có khi lại bị “trù” là khác. Họ không nói ra thì họ cứ để trong lòng, rồi sinh ra uất ức, chán nản. Rồi sinh ra thói “không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng”, “trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng nhiều mồm”, sinh ra thói “thậm thà thậm thụt” và những thói xấu khác. Thiếu dân chủ trong Đảng thì hậu quả khôn lường: “Nếu cán bộ không nói năng, không đề ý kiến, không phê bình, thậm chí lại tâng bốc mình, thế là một hiện tượng rất xấu. Vì không phải họ không có gì nói, nhưng vì họ không dám nói, họ sợ. Thế là mất hết dân chủ trong Đảng. Thế là nội bộ của Đảng âm u, cán bộ trở nên những cái máy, trong lòng uất ức, không dám nói ra, do uất ức mà hóa ra oán ghét, chán nản(5).

Phê bình là một nguyên tắc trong sinh hoạt Đảng, là quy luật phát triển Đảng, là vũ khí sắc bén của Đảng, là thang thuốc hay nhất để chữa các bệnh trong Đảng. Phê bình và tự phê bình không những để sửa chữa khuyết điểm trong Đảng, làm cho đảng viên tiến bộ và mạnh lên, mà còn khẳng định Đảng thật sự chân chính, cách mạng, tăng cường, mở rộng dân chủ và giữ được uy tín của Đảng. Đảng mạnh không phải nhờ khéo léo che giấu khuyết điểm, nhìn khuyết điểm ở nguyên nhân khách quan, cán bộ đảng viên giỏi che chắn, mà ngược lại. Hồ Chí Minh đã chỉ ra, “một đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng. Một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sữa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính(6).

Dân chủ là dân làm chủ. Dân chủ trong Đảng là đảng viên làm chủ, có quyền nói, có quyền đề ra ý kiến, bày tỏ quan điểm của mình để tìm ra cái gì có lợi cho dân, cho cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, phải “khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến”. Người lãnh đạo muốn biết rõ ưu và khuyết điểm của mình, muốn biết công tác của mình tốt hay xấu, muốn tăng cường đoàn kết thật sự trong Đảng, không gì bằng khuyên cán bộ mình mạnh bạo đề ra ý kiến và phê bình. Như thế, chẳng những không phạm gì đến uy tín của người lãnh đạo, mà lại dân chủ thật thà trong Đảng.

Dân chủ bằng cách thật thà tự phê bình và phê bình dựa trên tình đồng chí thương yêu lẫn nhau thì nhất định sẽ tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Bởi vì, đó là sự phê bình của những người cùng chí hướng, cùng mục đích, cùng lý tưởng. Mặt khác, dân chủ, sáng kiến, hăng hái rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái. Nhiều sáng kiến và hăng hái làm việc thì thêm đoàn kết, khuyết điểm lặt vặt cũng tự sửa được nhiều.

45 đọc lại Di chúc của Người vẫn thấy tươi rói vấn đề có từ hàng ngàn năm trước, đó là đoàn kết. Di chúc đã vạch ra quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững hoàn cảnh dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn nhận, phân tích vấn đề đoàn kết một cách khách quan, khoa học và cách mạng, vừa phát huy được truyền thống đoàn kết của dân tộc, vừa phù hợp tư duy của thời đại. Cũng vì vậy, vấn đề đoàn kết trong Di chúc vẫn vẹn nguyên giá trị trong thời đại ngày nay.

PGS-TS. Bùi Đình Phong - Học viên Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

_______________

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, t.3, tr. 217.

2. Hồ Chí Minh, Sđd, t.5, tr. 238.

3. Hồ Chí Minh, Sđd, t.10, tr. 18.

4, 5, 6. Hồ Chí Minh, Sđd, t.5, tr.243, 280, 261.


    Ý kiến bạn đọc