Phát động toàn quốc kháng chiến, quyết sách đúng đắn và kịp thời
EmailPrintAa
16:09 30/12/2016

Trong hai ngày 18 và 19/12/1946 Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng ở làng Vạn Phúc (Hà Đông) quyết định phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên cả nước. Vào 20 giờ ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến”. Cả dân tộc Việt Nam đứng lên theo tiếng gọi thiêng liêng của Người.
 
Phát lệnh toàn quốc kháng chiến. Ảnh tư liệu  

Sau khi giành được độc lập, dân tộc Việt Nam đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra ba nhiệm vụ chính là diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Việt Nam đứng trước thách thức cực kỳ nghiêm trọng, thực dân Pháp dã tâm trở lại xâm lược nước ta. Từ cuối tháng 8 đến đầu tháng 9 năm 1945 các lực lượng mang danh nghĩa là quân đồng minh vào Việt Nam giải giáp quân Nhật nhưng đều có chung mục đích chống phá cách mạng Việt Nam. Sự có mặt đồng thời của hơn 30 vạn quân gồm quân Trung Hoa dân quốc ở phía Bắc, quân Anh ở phía Nam cấu kết với bọn phản cách mạng trong nước đã đặt Việt Nam vào một tình thế hiểm nguy.

Ngày 23/9/1945 được sự hỗ trợ giúp sức của quân Anh, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm trụ sở Ủy ban Nhân dân Nam Bộ tại Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Nhận biết cuộc chiến tranh xâm lược khó tránh khỏi, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh một mặt chủ động hoạch định đường lối lãnh đạo cuộc kháng chiến, mặt khác tranh thủ thời gian hòa hoãn củng cố phát triển lực lượng cách mạng. Kiên trì đường lối ngoại giao hòa bình, bày tỏ thiện chí, thực thi những biện pháp linh hoạt, khôn ngoan để giải quyết xung đột, ngăn chặn nguy cơ chiến tranh. Từ tháng 9/1945 đến tháng 3/1946, ta chủ động hòa hoãn với quân Trung Hoa dân quốc ở miền Bắc, tập trung chống thực dân Pháp ở miền Nam. Khi Pháp và Chính phủ Trung Hoa dân quốc thỏa hiệp đe dọa trực tiếp đến nền dân tộc của Việt Nam, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã có đối sách nhạy bén, phù hợp. Từ tháng 3/1946 đến tháng 12/1946 chủ trương hòa với Pháp, đẩy nhanh quân Trung Hoa về nước. Với nhãn quan chính trị sáng suốt và nhạy bén, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã kịp thời quyết định kí bản “Hiệp ước sơ bộ” vào ngày 6/3/1946 với những điều kiện có lợi nhất có thể đối với Việt Nam; thể hiện rõ sự nhân nhượng có nguyên tắc: “Đối với Pháp độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế”. Nhưng rồi ngay sau khi ký “Hiệp định sơ bộ” thực dân Pháp lật lọng, dùng ưu thế về quân sự hòng lật đổ Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn kiên trì đấu tranh về ngoại giao, đề nghị phía Pháp mở cuộc đàm phán chính thức ở Pari với mục đích đạt thêm những thỏa thuận mới để củng cố cục diện hòa hoãn, đề cao vị trí quốc tế của Việt Nam, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có chuyến thăm chính thức nước Pháp nhằm tranh thủ tối đa khả năng hòa bình, dự Hội nghị Việt - Pháp tại Phongtennơblô (Pari) vào ngày 14/9/1946 và đã kí với Chính phủ Pháp văn bản “Tạm ước”. Đây là thể hiện sự nhân nhượng cuối cùng của Việt Nam tranh thủ mọi khả năng để gìn giữ nền hòa bình mong manh, đồng thời tích cực chuẩn bị cho cuộc kháng chiến cứu nước. Song thực dân Pháp một lần nữa lại phản bội. Ngày 02/11/1946 chúng nổ súng chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn và cho quân đổ bộ lên Đà Nẵng. Ngày 16/12/1946, Mooclie - Chỉ huy quân đội Pháp ở Bắc Đông Dương đã gửi tối hậu thư tuyên bố: “Quân Pháp sẽ tự mình đảm nhiệm trị an Hà Nội chậm nhất là vào sáng 20/12/1946”. Khi thấy khả năng hòa hoãn đã không còn, trên cơ sở thế và lực đã chuẩn bị trong điều kiện cho phép, Đảng ta kiên quyết phát động cuộc kháng chiến toàn quốc với tinh thần: “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Vào đêm ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. Với nội dung bao quát là: “Kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh”.

Nội dung của đường lối kháng chiến mang tính khoa học, được xây dựng trên cơ sở thực tế của tình hình, của tương quan lực lượng. Kháng chiến toàn dân là nội dung cốt lõi của đường lối kháng chiến. Kháng chiến toàn diện nhằm khai thác động viên tổng lực mọi sức mạnh và tiềm năng của cả dân tộc để đánh thắng kẻ thù. Kháng chiến lâu dài dựa trên cơ sở so sánh lực lượng giữa ta và địch đang có sự chênh lệch trước mắt không có lợi cho ta, song phải tranh thủ thời cơ củng cố và phát triển lực lượng, từng bước đưa cuộc kháng chiến ngày càng có lợi cho ta, chuẩn bị cho bước phát triển mới của cuộc kháng chiến để giành thắng lợi cuối cùng. Đường lối dựa vào sức mạnh của mình là chính, khai thác tận dụng mọi khả năng, tiềm lực vật chất, tinh thần của dân tộc, lấy nội lực là chủ yếu làm cơ sở để tranh thủ và sử dụng có hiệu quả ngoại lực, hết sức tranh thủ sự giúp đỡ của bên ngoài. Kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc, vì kiến quốc có đạt được những thành quả thì mới đẩy mạnh kháng chiến mau thành công.

Như vậy là sau 15 tháng từ ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, với sự nỗ lực giải quyết hòa bình bằng các biện pháp chính trị và ngoại giao không thành, để giữ vững nền độc lập dân tộc, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết tâm phát động toàn quốc đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp. Nội dung xuyên suốt của đường lối kháng chiến là tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao.

Với quyết định đúng đắn và kịp thời phát động toàn quốc kháng chiến sau khi đã nỗ lực hết sức để có hòa bình, thể hiện tư duy kiên định của Đảng là giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất Tổ quốc có chiến lược, sách lược, bước đi và phương pháp phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Luôn nêu cao và tranh thủ mọi điều kiện để có hòa bình, hữu nghị, coi trọng đối thoại. Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, nhạy bén nắm bắt tình hình và học hỏi những bài học mới của thời đại để vận dụng sáng tạo vào điều kiện của cuộc kháng chiến. Đứng trước khó khăn và thách thức tưởng chừng không thể vượt qua, nhờ có niềm tin mãnh liệt vào lòng yêu nước và truyền thống cách mạng của Nhân dân, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo, đoàn kết được sức mạnh toàn dân tộc.  Phát động toàn quốc kháng chiến và lãnh đạo toàn dân vừa kháng chiến vừa kiến quốc, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi vẻ vang là quyết sách không chỉ mang tầm lịch sử đối với cách mạng Việt Nam mà còn mang tính thời đại, lan tỏa ra thế giới để các dân tộc thuộc địa vận dụng đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc.

T.S Đặng Duy Báu


    Ý kiến bạn đọc