BÁC HỒ VỚI VĂN HOÁ TẾT
EmailPrintAa
09:57 18/02/2013

Tết Nguyên Đán là tết cả, là lễ hội dân tộc lớn nhất trong một năm. Những nghi lễ, tập tục ngày tết biểu hiện đậm nét văn hóa Việt Nam, văn hóa tâm linh, văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp, văn hóa nghệ thuật với các hoạt động văn nghệ (hoa đào, câu đối, sắc bùa, đi hát chúc v.v…) và văn hóa phục trang (quần áo tết), văn hóa ẩm thực (bánh chưng, bánh tét, mâm ngũ quả, cỗ bàn…). Tất nhiên, hơn ai hết, Bác Hồ am hiểu sâu sắc ý nghĩa các lễ nghi, phong tục Tết, và tâm lý của nhân dân ta đối với ngày Tết.

Ở chiến khu, Tết đến, Bác gói đồng tiền, đồng xu vào giấy hồng điều, mừng tuổi các cháu nhỏ và đi chúc Tết các ông bà già. Về Hà Nội, vào Tết độc lập đầu tiên (1946), mới ngày 18 tháng chạp, Bác đã hỏi ông Vũ Kỳ: “Chú cần xem sắp đến ngày Tết ông Táo chưa nhỉ?”. Tối 30 Tết Bác đi thăm và chúc Tết một số gia đình đồng bào Hà Nội, nhà nghèo, nhà vừa, nhà sang… Từ mười giờ đêm, trong bộ đồ nửa tỉnh nửa quê, áo the, khăn đóng, ngoài khoác áo dạ “ba-la-xuy” (Pardessus), cổ quàng khăn len, ông Vũ Kỳ, thư ký riêng, đưa Bác “xuất hành, du xuân”: Ra hồ Hoàn Kiếm, vào đền Ngọc Sơn xem đồng bào đi hái lộc, rồi lên đền Bạch Mã… Sáng mồng một Tết, Bác lại bảo ông Kỳ lấy tờ giấy để “Khai bút”.

Từ đó, vào dịp Tết, có năm Bác đi chợ Tết, ra Đồng Xuân xem đồng bào mua bán, dừng lại bên phố xem ông đồ viết câu đối… Có năm Bác ghé vào chùa, đền ngắm cảnh. Nhưng không năm nào không đi chúc tết đồng bào, chiến sĩ, Bác đến với mọi tầng lớp nhân dân, nhưng trước tiên đến những nhà nghèo. Có lần, một chị công nhân vừa đi làm về, thấy Bác đã ở trong nhà, cảm động bật khóc: “ Ôi, tết Bác cũng đến nhà cháu ư?”. Bác liền nói: “Bác không đến nhà cháu thì đến nhà ai!”… Về sau có điều kiện, vào dịp Tết, Bác đi thăm nhiều nơi… đơn vị bộ đội, nhà máy, hợp tác xã nông nghiệp…

*

* *

Không quên lễ nghi, phong tục xưa, nhưng Bác Hồ lại tìm cách làm cho phù hợp với cuộc sống hiện đại chứ không nệ cổ. Đặc biệt, Bác đã sáng tạo nên những tục lệ mới chưa từng có.

Năm nào Bác cũng có thư và thơ chúc Tết đồng bào. Bài thơ “Chúc năm mới” đầu tiên của Bác làm năm 1942, in trên báo Việt Nam độc lập số 114, có đoạn:

“… Chúc đồng bào ta đoàn kết mau,

Chúc Việt Minh ta càng tấn tới!

Chúc toàn quốc ta trong năm nay,

Cờ đỏ sao vàng bay phấp phới…”

Nhưng lúc đó bài thơ chưa được phổ biến rộng rãi, chưa mấy ai biết. Nói đến thư và thơ chúc Tết của Bác thì phải nói bắt đầu từ Tết Bính Tuất (1946), khi Bác đã là Chủ tịch Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Xin trích bài “Nghe thư chúc tết đầu tiên của Bác Hồ” của nhà viết kịch Học Phi kể lại đêm giao thừa năm ấy ở nhà Bác sĩ Nguyễn Văn Luyện, có mặt một số trí thức học ở Pháp về. Bỗng tiếng còi thành phố vang lên rồi tiếng chuông trống đổ dồn, tiếng pháo nổ giòn giã khắp nơi. Bác sĩ Luyện vừa đứng dậy, vừa mở to radio vừa nói: “Hãy nghe cụ Hồ Chí Minh chúc tết đã”. Tin Hồ Chủ tịch đọc thư chúc tết đã được thông báo trên đài, mọi người đã biết, nên cùng im lặng ngồi chờ… Từ trong máy thu thanh phát ra bài nhạc Quốc ca rồi đến tiếng nói ấm áp của Bác Hồ. Bác chúc Tết đồng bào ở trong nước và kiều bào ở nước ngoài, chúc các cụ phụ lão, các cháu thanh, thiếu niên và nhi đồng, các chiến sĩ đang chiến đấu ở ngoài mặt trận. Bức thư kết thúc bằng bốn câu thơ lục bát:

     “Bao giờ kháng chiến thành công,

                                        Chúng ta cùng uống một chum rượu đào.

 Tết này ta tạm xa nhau,

         Chắc rằng ta sẽ tết sau sum vầy.”

Không khí trong phòng lắng đi một lát, rồi bác sĩ Luyện lên tiếng trước: “Từ khi biết làm người, chưa bao giờ tôi được nghe một vị nguyên thủ quốc gia chúc tết dân…”

Bức thư này và hàng chục thư - thơ chúc Tết của Bác, trừ các thành thị và nơi có máy thu thanh được nghe, còn thì đồng bào chỉ đọc trên báo, mãi đến Tết những năm 60, dần dần mới được nghe trực tiếp. Ngoài giọng đọc ấm áp của Bác, bài thơ còn được nghệ sĩ Trần Thị Tuyết ngâm, làm tăng thêm tình cảm…

Xuân Đinh mùi (1967), Ủy ban Trung ương Mặt trận giải phóng miền Nam có sáng kiến thu lời chúc Tết của Bác vào băng tiếng, làm quà tặng một số gia đình trí thức tiêu biểu ở Sài Gòn. Nghe xong, nhà giáo Dương Minh Thới, thân sinh bà Dương Quỳnh Hoa, vô cùng xúc động, nói với các cán bộ Mặt trận: “Tôi xin thay mặt gia đình cảm ơn đoàn thể và anh em đã dành cho gia đình một món quà xuân đặc biệt. Xin qua anh em, cho chúng tôi gửi lời kính chúc Bác Hồ sống lâu để lãnh đạo cuộc kháng chiến mau đến ngày thắng lợi”.

Thư chúc mừng năm mới” cuối cùng Bác viết là vào Xuân Mậu Thân (1968). Cuối thư, có bài thơ:

Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,

Thắng trận tin vui khắp nước nhà.

Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,

                                             Tiến lên!

Toàn thắng ắt về ta!”

Bác còn có bài thơ chữ Hán “Mậu Thân xuân tết” viết vào 14/4/1968. Mùa xuân Kỷ Dậu (1969) sức khỏe của Bác đã sút kém nên Bác chỉ có bức điện bằng 4 câu thơ chúc Tết các đồng chí cán bộ đang công tác tại Pari mà thôi.

Hồi ấy, vào đêm giao thừa, đồng bào ta đều đón nghe Thư và Thơ chúc Tết của Bác, lâu ngày thành tục lệ mới. Về sau các vị Chủ tịch nước kế nhiệm vẫn tiếp tục truyền thống tốt đẹp ấy. Vào giao thừa hàng năm, đồng bào ta vẫn đón nghe.

Thật ra Thư - Thơ chúc Tết cũng là Thông điệp đầu năm của nguyên thủ quốc gia. Bác Hồ đã khéo chọn một cách làm mới mẻ phù hợp với tâm lý nhân dân, sáng tạo nên một hình mẫu văn hóa Tết hiện đại mà đậm đà bản sắc dân tộc.

Sáng tạo văn hóa Tết thứ hai của Bác Hồ là Tết trồng cây. Tôi muốn nhắc lại một sử liệu được chép trong bộ “Đại Việt sử ký toàn thư”: “Mùa xuân Bính ngọ, niên hiệu Thiên phù duệ võ thứ 7 (1126), vua Lý Nhân Tông hạ lệnh cấm nhân dân mùa xuân không được chặt cây”. Đó là Lệnh Chỉ được ban bố cách đây 887 năm khi khắp nước ta, kể cả ven kinh thành Thăng Long còn là rừng rậm. Đọc sử liệu này, người Việt Nam nào lại không kinh ngạc về tầm nhìn và tấm lòng của ông cha ta và không đau xót vì cái nạn “lâm tặc” hủy diệt rừng ngày nay. Về sau, hương ước nhiều làng xã cũng có điều khoản cấm chặt phá cây rừng và cây trồng nơi công cộng. Việc trồng cây cũng đã được thực hiện từ xa xưa. Cùng với trồng ngũ cốc, rau quả, người ta trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ, cây bóng mát, cây thuốc, cây cảnh… Cây tre, cây đa trở thành hình ảnh biểu tượng của làng xóm Việt Nam. Xoan, mít, bưởi, khế… là cây vườn quen thuộc. Sen, mai, đào là các loại quốc hoa. Nhiều giống cây trở thành đặc sản của từng vùng, miền: Đào Sapa, nhãn Hưng Yên, cam Bố Hạ, Xã Đoài, bưởi Phúc Trạch, thông Đà Lạt, mai Huế, dừa Bình Định, Bến Tre, xoài, sầu riêng… của miệt vườn Nam bộ… Cây đa - mái đình, cây đa - giếng nước, cây mít - nhà ngói, rồi đào - liên - cúc - mai, tùng - trúc - cúc - mai… đi vào hội họa, điêu khắc… Cây gắn bó với người, nuôi sống người, che chở người, “rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”… Người quý cây, chăm sóc vun bón cây…

Tiếp thu truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Bác Hồ rất thích trồng cây. Từ khi hoạt động ở Thái Lan cho đến khi về nước làm việc ở chiến khu Việt Bắc hay ở Thủ đô Hà Nội, Bác đều không quên “tăng gia sản xuất” và trồng cây. Bác tự mình làm trước và kêu gọi mọi người cùng làm.

Ngày 28/1/1959, lấy bút danh Trần Lực, Bác viết bài “Tết trồng cây” đăng trên báo Nhân dân kêu gọi toàn dân hưởng ứng một tháng trồng cây mùa xuân (từ 6-1 đến 6-2-1960) nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng. Đợt trồng cây này gọi là “Tết trồng cây”, mở đầu cho việc trồng cây quanh năm. Đồng bào ta náo nức hưởng ứng lời kêu gọi của Bác. Những “Đồi cây Bác Hồ”, “vườn cây Bác Hồ” phát triển khắp nơi. Từ ấy, “Tết trồng cây” được duy trì liên tục đến nay trở thành một phong tục mới, một văn hóa Tết mới.

Mùa xuân là tết trồng cây,

Làm cho đất nước càng ngày càng xuân”

(Trích bài báo của Bác viết trong dịp “Tết trồng cây” 1965)

Đối với Bác Hồ, trồng cây gây rừng không chỉ là “Thập niên chi kế” như lời Quản Trọng(1) - chính khách cổ đại Trung Hoa nói, không chỉ vì “có ích lợi to lớn cho kinh tế và quốc phòng” mà cao hơn là một tư tưởng nhân văn.

Ngày nay, nhân loại đang vất vả đối phó với sự biến đổi khí hậu toàn cầu, phấn đấu cho một trái đất xanh, ta càng nhận rõ tầm nhìn xa, nhận rõ tư tưởng lớn của Bác. Cùng với nhiều mặt khác, thế giới đánh giá rất cao phong trào trồng cây, “Tết trồng cây” của Việt Nam do Bác Hồ đề ra, khi tôn vinh “Hồ Chí Minh là nhà văn hóa kiệt xuất”.

____

(1) Quản Trọng: tên là Di Ngô, tự là Trọng, người nước Tề đời Xuân Thu, làm Tướng quốc, giúp Tề Hoàn công dựng nên nghiệp bá. Câu của ông là: “Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc, thập niên chi kế mạc như thụ mộc, Bách niên chi kế mạc như thụ nhân.


    Ý kiến bạn đọc