KỲ HOA HẢI KHẨU
EmailPrintAa
14:39 06/07/2015

"Kỳ Hoa hải khẩu" (cửa biển Kỳ Hoa), thường được gọi tắt là cửa Khẩu. Hải khẩu nguyên là danh từ chung, nhưng ở đây được dùng làm tên riêng của cửa biển. Vì vậy mà trong "Nghệ An ký" chép là "khẩu Hải Khẩu", còn trong "Lịch triều hiến chương loại chí" lại chép là "Cửa Loan Nương" (Có lẽ gọi theo truyền thuyết nàng Nguyễn Thị Bích Châu, Loan Nương Thánh Mẫu...). Một số tài liệu khác lại chép là cửa Hà Hoa (Đời Trần, thời thuộc Minh đến đầu đời Lê, đất Kỳ Anh bây giờ là huyện Hà Hoa)

Cửa Khẩu nằm trên tọa độ 106,21.36 độ kinh Đông và 18,06.48 độ vĩ Bắc, thuộc địa phận xã Hải Khẩu xưa, nay là xã Kỳ Ninh, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.

Trừ một ít khe suối mạn Tây Bắc đổ vào sông Rác và hói Dành mà chảy ra cửa Nhượng, một số khe suối phía Tây Nam qua rào Trâm, rào Móc, rào Mọn... chảy sang đất Quảng Bình, còn lại hầu như tất cả nước từ các khe suối trong huyện đều được các con sông Kinh Hạ, sông Quyền, sông Trí gom lại dồn về sông Vịnh để ra biển qua cửa Kỳ Hoa.

Sông Kinh Hạ, thường gọi là sông Kinh, cũng còn gọi là kênh Rác, kênh Voi là con sông đào cổ xưa nối sông Rác ở Cẩm Xuyên với cửa Khẩu. Sông dài khoảng 35 km, rộng trung bình 20 đến 25 mét, có vài đoạn rộng 100 đến 150 mét. Sông Kinh Hạ đi qua các làng Văn Thai, Tư Dung, Nhân Mỹ (nay là xã Cẩm Lạc, Cẩm Xuyên), Hữu Lệ (Kỳ Phong), Yên Hạ (Kỳ Tiến), Phú Thượng (Kỳ Phú), chảy vào con hói qua vùng Kỳ Giang, Kỳ Khang, Kỳ Thọ rồi đổ vào sông Cửa Khẩu (sông Vịnh).

Sông Quyền (nguyên là sông Quèn, về sau chữ Quèn được Hán hóa thành Quyền) có thượng nguồn là toàn bộ các khe suối từ dãy Hoành Sơn đổ xuống (khe Lũy, khe Dâu, khe Miêm, khe Đá Hát, khe Đầu Voi, khe Đá Bàn....), khi qua địa phận các xã Kỳ Phương, Kỳ Liên, Kỳ Long, Kỳ Thịnh, Kỳ Lợi, Kỳ Trinh dòng chảy được mở rộng dần và gọi là sông Quèn. Từ đây, sông chảy lên Đông Bắc, lại sang Tây Bắc, gặp sông Trô rồi chảy về hướng Đông hợp lưu với sông Trí ở địa phận xã Kỳ Hà, đổ vào lạch Quèn, hòa cùng sông Vịnh mà ra cửa Khẩu.

Sông Trí bắt nguồn từ vùng núi Yên Ngựa, chảy theo hướng Nam qua địa bàn các xã Kỳ Tân, Kỳ Hoa, rồi về hướng Đông bao quanh Dinh Cầu (Kỳ Châu), chảy qua phía Bắc Kỳ Hưng, phía Nam Kỳ Hải, đến Kỳ Hà thì hợp lưu với sông Quyền để hòa vào sông Vịnh mà đổ ra Hải Khẩu.

Sông Vịnh còn gọi là sông Cửa Khẩu, dài khoảng trên 10 km, nơi rộng nhất từ 300 - 400 mét, khi nước lên có thể rộng tới 1.000 mét, sâu khoảng 3- 4 mét, có đoạn sâu đến 7- 8 mét sâu nhất là đoạn chảy qua thôn Xuân Hà, Hải Khẩu ra tận cửa biển, tốc độ dòng chảy khoảng 0,5m/giây. Sông Vịnh ngày xưa đến hói Lỗ thì chảy ngược lên Ngọn Troong mà ra biển. Sau khi ông Quận Phạm Tiêm cho "lấp Cửa Lỗ, trổ Eo Bù", sông này thẳng về phía núi Cao Vọng mà ra cửa Khẩu như bây giờ.

Sông Cửa Khẩu - Sông Vịnh - Vịnh Giang cũng đã từng được nhiều tác giả văn chương nhắc tới. Câu hát: "Thôi thôi ngư trả biển vàng/ Cá lui về sông Vịnh, chim ngược ngàn tìm đôi", hoặc trong bài văn Tế cô Nhiễu:

 ".... Buổi hồi hôn về tới chốn Vịnh Giang, ngán thay vợ trẻ chồng già, cảnh liêu khách cáy cua cười rã rã" là đều nói đến con sông này.

Đối diện qua cửa Kỳ Hoa là hai ngọn núi cao: Bàn Độ và Cao Vọng. Về hai ngọn núi này, xưa nay sử sách và thơ văn ghi vịnh cũng đã nhiều. Ca ngợi Chế Thắng Phu nhân và ngôi đền Thánh Mẫu, Trần Văn Tá đã viết trong "Tụng Thánh Đức":

                   ...Chính khí ngút cao như ngọn Đọ

                   Nghiêm từ đối mặt với hòn Vong...

                                      (Thái Kim Đỉnh dịch)

Núi Bàn Độ (còn gọi là Rú Đọ) ở về phía tả ngạn (Thiên Nam dư hạ chép là Bàn Khánh). Người xưa kể rằng núi Bàn Độ đẹp như cảnh tiên, cây cối chim muông nhiều vô kể. Trên núi có đầm nước trong, thổ dân thường thấy các tiên nữ xuống tắm, rồi từ trong đầm đi lên núi chơi ở chỗ bàn cờ. Bởi vậy, đầm nước này gọi là đầm Thủy Tiên và chỗ bàn cờ cũng gọi là bàn cờ tiên. Dưới con mắt người xưa, núi Bàn Độ trông như "Chiếc mâm vàng trôi trên mặt biển" (Kim Bàn Độ hải). Có thể từ hình ảnh nên thơ này người ta đã gài vào truyền thuyết về bà cung nữ Bích Châu: "Vua Trần Duệ Tông cho người cung nữ ngồi trên mâm vàng thả xuống biển hiến cho giao thần".

Núi Cao Vọng (còn gọi là Rú Vong) về phía hữu ngạn, chạy từ Hoành Sơn về nằm sát bờ biển lại có sông Dinh chảy quanh phía tây. Trên là núi, dưới là biển. Sông sâu biển rộng nên trông núi càng cao vút. Sử cũ chép nơi đây, năm 1407, giặc Minh đã vây bắt Hồ Hán Thương và thái tử Nhuế.

Đối diện núi Cao Vọng, ở sát mép bờ hữu là đền Chế Thắng phu nhân, thờ liệt nữ Nguyễn Thị Bích Châu, dân gian thường gọi là đền Bà Hải, hay đền Hải Khẩu. Đền được lập theo kiểu tiền miếu hậu lăng. Đền Chế Thắng phu nhân tọa lạc trên một cồn cát khá cao và khá rộng nơi cửa biển. Từ cửa biển nhìn vào, núi Cao Vọng nhìn sang hay núi Bàn Độ trông xuống, cả khuôn viên đền nổi lên như một ngọn núi nhỏ duyên dáng, cây cối xanh tươi, sầm uất giữa mênh mông đất trời Kỳ Hoa.

Xúc cảm trước cảnh mây núi, biển trời, đền thiêng nơi cửa biển, năm 1471 trên đường đi đánh Chiêm Thành trở về nghỉ lại đây, vua Lê Thánh Tông đã cảm hứng viết: Hà Hoa hải môn lữ thứ (Nghỉ lại cửa biển Hà Hoa):

                   Hà Hoa đáo xứ vũ sùng triêu,

                   Hoàn hải mang nhiên tứ vọng diêu.

                   Xúc thạch du du vân luyến tụ,

                   Bài nham húng húng lãng tùy triều.

                   Thủy Tiên đàm thượng yên hà cổ,

                   Chế Thắng từ trung thảo mộc kiều.

                   Túy ỷ song bồng ngâm ý phát,

                   Thi hoài khách tứ bội vô liêu.

Nhà nho Đỗ ngọc Toại dịch:

                   Mưa mai mù mịt cửa Hà Hoa,

                   Ngắm biển mênh mang bốn phía xa.

                   Mây mến đầu non lơ lửng đứng,

                   Sóng theo con nước rập rờn qua.

                   Thủy Tiên đầm nọ đầy sương ráng,

                   Chế Thắng đền kia rực cỏ hoa.

                   Say tựa bên mui càng nảy hứng,

                   Lòng thơ dạ khách khó khuây khoa.

Trong lịch sử, Kỳ Hoa hải khẩu cũng là cửa biển quan trọng ở phía Nam Đại Việt xưa. Nhiều sự kiện lịch sử quan trọng đã xẩy ra ở đây. Sử sách ghi chép là vào thời thuộc nhà Tùy, tháng giêng năm Ất Sửu (605), Hoan Châu đạo hành quân, tổng quân Lưu Phương và bọn đại tướng Trương Tốn đem quân từ cửa biển quận Tỵ Ảnh (có thể cửa Sót) vào đánh Chiêm Thành, quân đến nghỉ tại cửa Hải Khẩu.

Người Chăm Pa từ khi lập quốc (TKII), thường đưa thuyền vào cửa Khẩu và cửa Nước Mặn (nay đã bị vùi lấp) cướp phá, bắt người.

Trong các đợt vượt Hoành Sơn lấn chiếm đất Đại Việt như năm 803, quân Hoàn Vương (Chăm Pa) tràn sang đánh đuổi quân đô hộ nhà Đường, chiếm hai châu Hoan, Ái (Thanh Nghệ Tĩnh), đến năm 808 tướng nhà Đường là Trương Chu mới đẩy lùi được. Năm 907 - 910, người Chiêm Thành lại đánh chiếm vùng Bắc đèo Ngang ra đến tận núi Nam Giới và đặt quan cai trị 70 năm, đến năm 981 Lê Đại Hành mới lấy lại được. Những lần người Chăm Pa đánh ra Bắc Hoành Sơn thì Kỳ Hoa Hải Khẩu là cửa biển đầu tiên bị chiếm đóng. Và trong những thời gian ấy, cửa Khẩu là điểm rất quan trọng đối với người Chiêm. Thuyền chiến, thuyền lương của họ qua lại, tập kết ở đây để phục vụ cho việc tiến thoái, phòng ngừa và cai trị vùng chiếm đóng.

Thời Lý, Trần người Chiêm Thành thường hay đến cướp phá ven biển, nhiều lần chúng đột nhập vào cửa Kỳ Hoa bắt người bán sang Chân Lạp, nên triều đình đã phải đặt một đồn binh ở đây để canh giữ.

Đời Lê từ các cuộc nội chiến Lê - Mạc, Trịnh - Nguyễn, cửa Khẩu càng trở thành vị trí quân sự trọng yếu. Ở đây được đặt một đội thủy quân (đội giã) khoảng 300 người và đặt một đồn "hải phòng" do đội lính thú canh giữ để bảo vệ trấn lị Dinh Cầu và bờ biển phía Nam.

Sau các sự kiện hai ông vua Trần Duệ Tông (1373- 1377) và Lê Thánh Tông (1460- 1497) trên đường Nam chinh đều dừng chân nơi đây và để lại nhiều dã sử thú vị thì việc khoảng mồng ba đến mồng sáu, tháng 6 năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ ồ ạt kéo quân ra Bắc diệt Trịnh qua cửa Khẩu mộ thêm binh sĩ, kêu gọi quân lương cũng là một sự kiện lịch sử rất quan trọng, được ghi dấu nơi Kỳ Hoa hải khẩu.

Kỳ Hoa hải khẩu không những là một vùng có nhiều cảnh thiên nhiên đẹp, mà ở đây còn là một vùng chứa đầy sự kiện lịch sử, sự tích và huyền thoại, bởi vậy mà thơ ca ngâm vịnh, xướng họa, truyền kỳ, ký sự... liên quan đến cửa Khẩu rất nhiều. Tiến Sĩ Dương Thúc Hạp (1835 - 1920), trong "An Tĩnh sơn thủy vịnh" đã viết:

                             HẢI KHẨU HẢI

                   Đảng đảng thiên trùng nhất vọng xa

                   Thao thao tiến khí đãi dinh khoa

                   Thừa phong châu lãm tung hoành khứ

                   Hý lãng ngư long xuất nhập đa

                   Trần đế chinh thiều không trạch quốc

                   Cung phi trạc phách hữu kim ba

                   Diêm Vương tưởng diệc thù giai ước

                   Cụ mậu đương vô trở khách sà.

Võ Hồng Huy dịch:

                   Nghìn trùng một ngắm, biển thênh thênh

                   Ăm ắp chân mây, nước dập dềnh

                   Rồng cá chen sông đua nhảy múa

                   Thuyền bè lướt gió mặc tung hoành

                   Tấc hồn cung nữ vàng thêu sóng

                   Thuyền chiến vua Trần lái chệch kênh

                   Nợ hẹn Diêm Vương nay đã trả

                   Không hề dâng sóng lật thuyền mành.

Từ năm 1947 – 1949, khi cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp đang diễn ra ác liệt, trong sáu lần giặc Pháp đổ bộ lên bờ biển Kỳ Anh thì có hai lần chúng đổ bộ lên đất Kỳ Ninh qua cửa Khẩu. Đội du kích Hải Khẩu (nay là xã Kỳ Ninh) đã có thành tích xuất sắc trong việc đánh giặc bảo vệ xóm làng. Đặc biệt là việc dùng mẹo nghi binh vừa tiêu diệt được địch vừa bảo vệ được lực lượng của ta.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hạm đội 7 của Mỹ đã bắn vào đây hàng trăm quả đạn pháo hạng nặng. Đặc biệt từ tháng 3 đến tháng 11 năm 1968, địch đánh phá hủy diệt vùng ven biển và thả bom từ trường, thủy lôi... phong tỏa đường sông đường biển của ta. Với khẩu hiệu "Mở đường mà tiến", huyện đã gấp rút thành lập các tổ rà phá bom. Tổ Kỳ Ninh với chiến sĩ Đặng Đinh Ghí đã có ngày phá đến 29 quả và toàn tổ đã phá được tất cả 138 quả bom, trong đó có những quả nằm sâu dưới đáy sông Vịnh.

Năm 2004, nhân dân và lực lượng vũ trang xã Kỳ Ninh (vùng Hải Khẩu xưa) đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu "Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân".

Kỳ Hoa hải khẩu là một vùng đầy những sự tích, lịch sử và huyền thoại, đúng như một câu đối chữ Hán đã trang trọng ghi trong điện thờ Linh Từ Hải Khẩu:

                   Tiết liệt sóng tê trời Hải Khẩu

                   Vinh quang điểm sáng đất Hà Hoa

                                      (Thái Kim Đỉnh dịch).

 

Lê Văn Tùng

-------------------

Tài liệu tham khảo:

            - Đại Việt sử ký toàn thư (trọn bộ) của Nhà xuất bản Thời đại.

            - Nghệ An ký (của Tiến sĩ Bùi Dương Lịch, Q1, ký hiệu của thư viện khoa học Trung ương A.607, bản đánh máy của Ty Văn hóa Hà Tĩnh tháng 5/1973).

            - An Tĩnh sơn thủy vịnh (của Tiến sĩ Dương Thúc Hạp, Hội liên hiệp VHNT Hà Tĩnh xuất bản năm 2004).

            - Kê Minh thập sách, minh triết trị nước an dân (Kỷ yếu hội thảo khoa học - 26/3/2010).

            - "Chuyện kháng chiến Hà Tĩnh" (Tỉnh đội Hà Tĩnh xuất bản 1960).

            - Địa chí huyện Kỳ Anh (Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin - 2011).

            - Thơ văn Lê Thánh Tông (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội - 1986).


    Ý kiến bạn đọc