Bộ Y tế công bố kết quả nghiên cứu mức độ an toàn của hải sản 4 tỉnh miền Trung
EmailPrintAa
16:50 03/10/2016

Ngày 20/9/2016, tại Hội nghị giao ban báo chí do Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, Bộ Y tế, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thông tin một số nội dung về môi trường biển, việc khai thác, sử dụng hải sản tại vùng biển Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.

Công bố kết quả nghiên cứu mức độ an toàn của hải sản 4 tỉnh miền Trung

Bộ Y tế kết luận, tất cả các hải sản như: Cá ngừ, cá thu, cá nục các loại, cá chỉ vàng, cá bạc má, cá hố, cá bò, cá cam, cá trích, cá đối, cá cơm và các loại hải sản khác sống ở tầng nổi. Hải sản tại đầm nuôi của 4 tỉnh miền Trung cũng đảm bảo an toàn để sử dụng làm thực phẩm.

Bộ Y tế cũng khuyến nghị không sử dụng nhiều loại hải sản tại 4 tỉnh miền Trung như: Ghẹ, tôm, tôm tít, ốc, mực, cá đuối, cá đục, bạch tuộc, cua đá và các hải sản khác sống ở tầng đáy trong vòng 20 hải lý (theo danh mục của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn).

Đây là kết luận chính từ nghiên cứu mức độ an toàn của hải sản 4 tỉnh miền Trung của Bộ Y tế với sự tham gia của các chuyên gia quốc tế và chuyên gia đầu đầu ngành của Bộ Y tế về an toàn thực phẩm, dinh dưỡng, độc học... (từ ngày 22/8/2016).

Nghiên cứu được triển khai với quy mô lớn từ 1.040 mẫu hải sản được lấy hàng ngày, ở tất cả các cảng cá, gò cá, các thuyền đánh bắt cá, đầm nuôi tại 4 tỉnh miền Trung. Các mẫu được kiểm nghiệm các chỉ tiêu xyanua, phenol, thủy ngân, cadimi, chì, crom, asen và sắt tại Viện Kiểm nghiệm An toàn vệ sinh thực phẩm Quốc gia và Viện Dinh Dưỡng, đây là hai phòng xét nghiệm đạt tiêu chuẩn của quốc tế về kiểm nghiệm an toàn thực phẩm.

Song song với việc lấy mẫu tại 4 tỉnh, Bộ Y tế cũng tiến hành lấy 300 mẫu hải sản tại 3 tỉnh/thành phố: Hải Phòng, Khánh Hòa và Bà Rịa Vũng tàu là các tỉnh không chịu ảnh hưởng của sự cố môi trường để làm nhóm chứng, so sánh với hải sản miền Trung.

Suốt quá trình thực hiện nghiên cứu, Bộ Y tế đã phối hợp chặt chẽ với các chuyên gia của Tổ chức Y tế thế giới từ Tổng hành dinh tại Geneva - Thụy Sỹ, từ Văn phòng khu vực Tây Thái Bình Dương tại Manila - Phillipines và các chuyên gia về an toàn thực phẩm và kiểm nghiệm của Nhật bản, Canada. Các mẫu được gửi đi kiểm chứng tại các Phòng kiểm nghiệm của trường Đại học Osaka - Nhật Bản và Trung tâm các Giải pháp của Singapore. Kết quả kiểm chứng tại các phòng kiểm nghiệm nước ngoài cho thấy sự đồng nhất về kết quả kiểm nghiệm hải sản với 2 Viện của Việt Nam.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, tất cả các loại hải sản tại 4 tỉnh miền Trung và 3 tỉnh nhóm chứng đều không phát hiện bất kỳ mẫu nào có xyanua - chất được xác định là một trong những nguyên nhân gây ra cá chết hàng loạt.

Các chỉ số thủy ngân, cadimi, chì, crom, asen và sắt trong hải sản ở 7 tỉnh trên (4 tỉnh miền Trung và 3 tỉnh đối chứng) đều nằm trong giới hạn cho phép, đảm bảo an toàn theo quy định.

Các kết quả xét nghiệm đối với hải sản tại các đầm nuôi 4 tỉnh miền Trung đều đảm bảo an toàn.

Đối với phenol, tất cả các mẫu hải sản tầng nổi (cá ngừ, cá thu, cá nục các loại, cá chỉ vàng, cá bạc má, cá hố, cá bò, cá cam, cá trích, cá đối, cá cơm và các loại hải sản khác sống ở tầng nổi) tại 4 tỉnh miền Trung đều không phát hiện mẫu nào có phenol.

Tuy nhiên, phát hiện 132/1.040 mẫu hải sản của 4 tỉnh miền Trung có phenol, bao gồm: Ghẹ, tôm, tôm tít, ốc, mực, cá đuối, cá đục, bạch tuộc, cua đá - đây là các loài hải sản sống ở tầng đáy.

Phân bố 132 mẫu hải sản có phát hiện phenol đều nằm trong vùng từ 5 - 25 km (tương đương với khoảng từ 2,7 - 13,5 hải lý) với tỷ lệ mẫu nhiễm cao nhất tại Hà Tĩnh và Quảng Bình và thấp nhất tại biển Lăng Cô - Thừa thiên Huế.

Để đảm bảo an toàn sức khỏe người tiêu dùng, Bộ Y tế còn đề nghị UBND 4 tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế tiếp tục chỉ đạo Sở Nông nghiệp, Sở Công thương (đơn vị được giao quản lý kho hàng đông lạnh) phân loại hải sản theo từng lô, Sở Y tế chỉ đạo lấy mẫu theo từng lô và trả kết quả cho đơn vị quản lý được UBND giao nhiệm vụ. Chỉ cho phép lưu hành lô sản phẩm khi đã được xét nghiệm an toàn. Đối với các lô không an toàn phải buộc tiêu hủy và đền bù theo quy định.

Đồng thời, tăng cường truyền thông hướng dẫn người dân về các loại hải sản chưa đảm bảo an toàn và chỉ đạo các sở, ban, ngành và chính quyền các cấp triển khai các biện pháp cần thiết để đảm bảo việc khai thác, sử dụng hải sản an toàn theo đúng hướng dẫn của các Bộ.

Thời gian tới, Bộ Y tế sẽ tiếp tục phối hợp với Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn thực hiện chương trình giám sát định kỳ đối với các hải sản được khai thác tại 4 tỉnh miền Trung nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm và sức khỏe cho nhân dân. Đồng thời, tiếp tục lấy mẫu các loại hải sản có phát hiện phenol ở trên và các hải sản khác ở tầng đáy trong vòng 20 hải lý để tiến hành giám sát, xét nghiệm.

 Môi trường biển và việc khai thác, khôi phục sản xuất

Cũng liên quan tới nội dung này, Bộ Tài nguyên và Môi trường báo cáo: với sự kiểm soát chặt chẽ các nguồn phát thải từ Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh và do cơ chế làm sạch tự nhiên của môi trường, hàm lượng các chất ô nhiễm từ sự cố môi trường đã giảm theo thời gian. Chất lượng môi trường nước biển tại tất cả các khu vực được quan trắc đều nằm trong giới hạn quy định của QCVN 10-MT:2015/BTNMT, đạt quy chuẩn đối với vùng bãi tắm, thể thao dưới nước, nuôi trồng thủy sản và bảo tồn thủy sinh.

Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường vẫn đang và sẽ tiếp tục triển khai chương trình quan trắc môi trường biển tại các tỉnh miền Trung để tiếp tục theo dõi hiện trạng và diễn biến chất lượng môi trường, cảnh báo kịp thời khi chất lượng môi trường biển có dấu hiệu ô nhiễm.

Thông tin từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngay sau khi Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố kết quả điều tra, đánh giá mức độ, phạm vi ô nhiễm môi trường biển do sự cố môi trường gây ra tại 4 tỉnh miền Trung, Bộ  đã ban hành công văn về hướng dẫn nuôi trồng thủy sản, khai thác thủy sản và giám sát an toàn thực phẩm, sản xuất muối tại 4 tỉnh miền Trung.Đối với lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, các địa phương tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn cho người dân hoạt động thủy sản mặn, lợ bình thường đối với tất cả các phương thức nuôi: nuôi lồng bè, bãi triều và trong ao, đầm.Thực hiện công tác quan trắc môi trường tại các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung, trong đó lưu ý quan trắc bổ sung các thông số: xyanua, phenol, đồng thời, kịp thông báo và khuyến cáo cho người nuôi.Thực hiện các biện pháp kỹ thuật đối với nuôi lồng, đăng, quầng và bãi triều, nuôi trong ao, đầm.

Đối với lĩnh vực khai thác, Bộ cũng đưa ra khuyến cáo, để phục hồi nguồn lợi thủy sản và các hệ sinh thái thủy sinh là nơi cư trú của các loài thủy sản, các ngư dân chưa khai thác tại ba khu vực biển (Hòn Sơn Dương - Hà Tĩnh), Cửa Nhật Lệ (Quảng Bình), Hòn Sơn Chà (Thừa Thiên Huế). Đồng thời, không sử dụng các nghề khai thác tầng đáy như nghề: lưới kéo, rê đáy, lặn, câu đáy, lồng bẫy, khai thác nhuyễn thể hai mảnh vỏ tự nhiên trong vùng biển 20 hải lý trở vào bờ thuộc các tỉnh từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên Huế.

Về giám sát an toàn thực phẩm sản phẩm hải sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng tổ chức thực hiện giám sát tại các cảng cá, bến cá khi tàu về bờ và lưu ý các loại hải sản tầng đáy thường gặp ở vùng biển 4 tỉnh từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên Huế. Thời điểm lấy mẫu giám sát là khi sản phẩm khai thác được bốc dỡ từ tàu khai thác đưa lên bờ tiêu thụ. Tần suất lấy mẫu giám sát 2 - 3 ngày/lần, tùy theo điều kiện thực tế ở địa phương. Số lượng mẫu đại diện cho các tàu đang đưa cá lên bờ tại thời điểm lấy mẫu; lựa chọn cá thể mẫu bảo đảm đại diện tầng sinh thái (tầng đáy, tầng nổi) và các loài hải sản khác nhau (cá, giáp xác, nhuyễn thể).

Đối với sản xuất muối, tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn diêm dân tham gia sản xuất muối bình thường và lấy mẫu giám sát an toàn thực phẩm theo định kỳ.Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã xây dựng dự thảo Đề án “Xác định, bồi thường thiệt hại và hỗ trợ khắc phục hậu quả, khôi phục sản xuất, chuyển đổi nghề cho người dân bị ảnh hưởng bởi sự cố môi trường”.

T.H


    Ý kiến bạn đọc